Tuesday
23
April
2024
(View: 40830)
Hội Thánh Phúc Âm - 14381 Magnolia St. Westminster, CA 92683 (NorthWest corner of Magnolia/Hazard). Liên lạc: vuxh2916@gmail.com
(View: 41392)
Kính Chúc Quý Thân Hữu & Giáo Hữu Cùng Toàn Thể Quý Thân Quyến một năm mới tràn đầy Thiên Ân & Thiên Phước ban từ Đấng Cứu Thế Jesus.
(View: 41576)
Cầu Nguyện chương trình tốt nghiệp kinh thánh tại gia Xin liên lạc email: VNFGMissions@yahoo.com

Ký Thuật Cuối Cùng Thời Cựu Ước

Tuesday, September 21, 201012:00 AM(View: 4848)

THỜI GIAN IM LẶNG TRONG KINH SỬ
(Sáng Thế 425-5 B.C. trước Công nguyên)
Ký Thuật Cuối Thời Cựu Ước --------------------

Trong khi sử ký Cựu Ước sắp kết thúc, tấm màn che hạ xuống trên những thế kỷ đầu của sự hiện hữu loài người. Từ Adam và Eve đến Ezra và Nehemiah, Thượng Đế đã khải hiện chính Ngài trong các vấn đề cá nhân và dân tộc. Từ những thời cổ sơ nhất của các tổ phụ, một kế hoạch thiên thượng đã được bày tỏ để dạy loài người biết về thiên tính của Thượng Đế, và chuẩn bị thế gian cho một Đấng Cứu Độ, Đấng sẽ biến cải trạng thái tội lôĩ loài người và mang lại sự sống chân thật. Trong kế hoạch nầy, công cụ chính của Thượng Đế là dân tộc Hebrew của Israel khá đen tối. Khoảng 650 năm trước khi quốc gia nầy thành hình, Thượng Đế đã phán hứa cùng tổ phụ trung tín Abraham rằng các hậu tự của Ông sẽ trở thành một dân tộc lớn và sẽ có xứ sở riêng họ, và qua họ hết thảy các dân tộc trên địa cầu sẽ được phước (Sáng Thế 12:1-3).

Điều hứa đầu tiên được hoàn thành, khi 12 chi tộc Israel được giải phóng khỏi vòng nô lệ Egypt và đưa về Núi Sinai. Thượng Đế lập giao ước cùng dân tộc mới mẻ của Israel nầy rằng Ngài sẽ là Thượng Đế của họ, và đối lại, họ kết ước rằng họ sẽ là con chọn của Ngài. Một trong các bằng chứng giao ước là kinh luật ban cho Moses. Với ngưồn gốc thiên thượng và thần quyền, dường như chưa có luật pháp nào khác được ban ra. Qua kinh luật đó, Thượng Đế đề cao ý thức đạo đức và thiết lập một tôn giáo hoàn toàn mới, với một đền tạm, các tế sĩ, những của lễ hy sinh, những hiến dâng, những kỳ Sabbaths, cùng những lễ hội thánh. Đây là một nguyên khởi vĩ đại. Nhưng chính trong tuần đầu, dân nầy đã bày
tỏ một tinh thần loạn nghịch, và tiếp tục từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Tinh thần loạn nghịch đem lại cho họ 40 năm lang thang trong miền hoang dã như một hình phạt. Nhưng với lòng thương xót, Thượng Đế đã tha thứ dân chọn của Ngài và dẫn họ vào đất hứa Canaan. Qua thời kỳ các quan án, sau khi các dân cư địa phương được khắc phục khả quan,
cuối cùng dân tộc nầy có xứ sở riêng họ, và điều hứa thứ hai của Thượng đế ban cho Abraham đã hoàn thành.

Từ điểm nầy trở đi, điều duy nhất còn lại cho dân tộc Israel là trở thành một ngồn phước cho toàn thế giới. Suốt triều đại 120 năm dài của Saul, David và Solomon, dường như sự vùng lên của dân tộc nầy tới điểm nổi tiếng và quyền lực, là khởi đầu thành tựu điều hứa thứ ba. Nhưng, ngay khi Vua Solomon băng hà, lại một lần nữa sự loạn nghịch mang thảm họa đến với dân chúng – lần nầy là nội chiến và vương quốc phân chia. Trong 325 năm, dân chúng trở nên ngày càng loạn nghịch, quay khỏi Thượng Đế của họ - Đấng Sáng tạo vũ trụ, và đến với các thần ngoại và những hình tượng do chính họ làm ra. Bởi tội lỗi luôn luôn mang lại sự chết, nên tội lỗi của dân chúng là một tiếng chuông báo sự chết cho chính dân tộc họ. Thượng Đế đã dùng những kẻ thù trong lãnh thổ Israel như các thuộc viên của Ngài để xét xử họ, và cả hai phần vương quốc bị tấn chiếm và lưu đày. Qua suốt thời suy thoái tâm linh và chính trị nầy, Thượng Đế đã sai từ tiên tri nầy đến tiên tri khác, kêu gào chống nghịch tội lỗi của dân chúng và cảnh cáo về những hình phạt đang chờ họ. Dù vậy, không ngoại lệ, mọi sứ điệp đều được chấm dứt bằng một điểm hy vọng và một lời hứa phục hồi. Cuộc lưu đày sẽ chấm dứt trong vòng 70 năm, và đền thánh sẽ được tái dựng. Thậm chí, xa hơn nữa, có những lời tiên tri về một Đấng Giải Cứu sẽ đến và thiết lập một vương quốc vĩnh cửu bình an và hoan hỉ.

Luôn luôn thành tín, Thượng Đế đã hoàn thành điều hứa khi Ngài đem con dân của Ngài trở về xứ sở họ đúng như lời Ngài nói trước – 70 năm sau cưộc lưu đày lần thứ nhất. Và khoảng 20 năm sau, khi đền thánh được tái dựng, một lần nữa, lời của Thượng Đế lại được chứng minh là chân thật. Nhưng khi chế độ thống trị của ngoại bang và áp lực địa phương kéo dài hơn thế kỷ kế tiếp, vỡ mộng và nghi ngờ bắt đầu – và cùng với nó, cơn loạn nghịch tâm linh lại tái phát.

Dù sứ điệp của Tiên tri Malachi tuyên báo ngày Chúa sắp đến, và dù cơn phấn hưng tâm linh ngắn hạn dưới thời Ezra và Nehemiah, ký thuật Cựu Ước không kết thúc ở điểm lạc quan và tự tin mạnh mẽ. Cả đến bây giờ, dân Israel tiếp tục cố tình vi phạm luật lệ của Thượng Đế; dân tộc nầy vẫn dưới quyền của Đế quốc Persia (Ba tư), khi mà, như những người Jews có thể nói, không có dấu hiệu nào về một “siêu vương” sắp thiết lập vương quốc lý tưởng mà họ trông đợi. Họ không cần nhớ mọi điều hứa khác mà Thượng Đế đã thành tín thể hiện trong hơn 40 thế kỷ. Đấng Giải Cứu vĩ đại mà các tiên tri đã truyền rao, hiện ở đâu? Rốt cuộc, phải chăng Thượng Dế đã đi quá xa trong cố gắng tạo sự chú ý trong dân chúng? Phải chăng điều hứa nầy quá khó làm thành đối với một Thượng Đế của các từng trời?

Mặc dù quá khứ tốt đẹp có thể cáo trách người Jews về sự thiếu mất đức tin của họ, sự nản lòng của họ thật dễ hiểu. Trong những thế kỷ sau, những người khác – Do thái giáo cũng như ngoài Do thái giáo – sẽ đau khổ thất vọng vì tiêu điểm chính của họ nhắm vào một vương quốc vật thể hơn tâm linh, hay sự đến của thời kỳ cuối cùng mà họ đã nhầm lẫn chờ đợi. Và buồn hơn hết, cuối cùng khi Đấng Giải Cứu đến, Ngài không giống như hình ảnh mà những người Jews đã hình dung, đến nỗi hầu hết trong bọn họ không nhận biết Ngài.
 
Bao lâu nữa Đấng Giải Cứu sẽ đến? Bao lâu nữa những người Jews – thật sự là cả thế giới – phải chờ đợi ngày vinh quang của lời hứa nầy? Nếu Tiên tri Daniel đã được ban cho một dấu chỉ trong khái thị của Ông về “Bảy Mươi lần Bảy,” thì Đấng Giải Cứu sẽ không đến trước khoảng 400 năm kể từ thuở ấy. Thật vậy, đây cũng là khoảng thời gian mà ký thuật lịch sử trong Kinh Thánh đã im lặng.

Nhưng, tại sao ký thuật lịch sử trong Kinh Thánh phải gián đoạn như vậy? Hẳn nhiên người ta chỉ suy đoán, song có thể để thêu dệt biến cố quan trọng nhất trong lịch sử loài người. Có thể, một điều nào đó cần phải nói lên để phân tách Đấng Giải Cứu khỏi bất cứ những ràng buộc chuyên chế nào với dân tộc Hebrews nhỏ bé nầy, hầu cho Vương quốc Thượng Đế sẽ được thấy thật sự thuộc về đại chúng. Có thể tình trạng chính trị trong một thời gian sau sẽ thuận lợi hơn cho sứ mạng của Đấng Giải Cứu. Hoặc có thể sự trì hoãn là để bảo đảm sự đối nghịch lại bất cứ khả năng nào cho rằng sự thành tựu các lời tiên tri tương đối gần đây chỉ là sáng tác của các tín đồ đang hy vọng. Dù bất cứ lý do nào của Thượng Đế, thật rõ ràng dân tộc Israel sẽ phải chờ đợi Đấng Giải Cứu theo lời hứa, và phải chờ đợi ngày, qua dòng dõi họ, hết thảy các dân tộc trên địa cầu đều được phước.
Send comment
Your Name
Your email address
Bức minh họa nổi bậc nhất trong năm 2000 là lịch sử của các tương quan giữa những người Do thái giáo và Cứu thế giáo. Các tín hữu Cứu thế giáo càng đáp ứng với Thánh Linh của Đấng Christ, thì các môn đồ Do thái giáo càng thấy rằng sự cứu độ đã đến với người Ngoại; các tín hữu Cứu thế giáo càng quên qui luật tình yêu, thì họ càng xua đuổi người Jews ra khỏi Đấng Christ và mất đi trị giá Cứu thế giáo. Khi chúng ta nhìn kỹ tất cả những gì đã xảy đến với người Jews trong danh Đấng Christ, hết thảy chúng ta phải cúi đầu trong
Rất dễ nghĩ rằng sau cuộc lưu vong, hết thảy những người Jews (Do thái giáo) tại Babylonia, đều muốn quay về Palestine. Sự thật không phải vậy. Nhiều người Jews không muốn trở về, mà vẫn tiếp tục sống tại Babylonia, Egypt, và các khu vực khác. Những người đó từng hấp thụ các nền văn hóa ngoại bang, và bị ảnh hưởng trong một số lối sống, gồm cả tín ngưỡng và hành đạo. Bởi ngôn ngữ Hebrew dễ dàng mở ngỏ cho Aramaic và các ngôn ngữ khác, khiến sự ham thích đọc Kinh Torah (Bộ Ngũ Kinh của Moses) bị xao lãng, khi mà Luật pháp Moses đã được thông dụng.